Theo Bloomberg, kỳ vọng xe điện sẽ rẻ ngang ô tô chạy xăng vào năm 2024 là hão huyền trong bối cảnh ắc quy tăng giá.
Ngành xe điện đang đích thực bùng nổ khi vô kể thương hiệu đổ dồn vào công nghệ mới này. Thậm chí nhiều bẩm phân tách được cho là không theo sát được tốc độ tăng trưởng của ngành này. Hãng tin Bloomberg cho biết tỷ lệ dùng tàu điện sẽ tăng từ chưa đến 10% năm 2021 đến 40% năm 2030.
Tùy thuộc vào nguồn tin mà các ước lượng về số lượng tàu điện đang lưu thông hiện thời vào khoảng 25-40 triệu chiếc.
Tuy nhiên theo tờ The Economist, hàng chục triệu chiếc cùng với ti tỉ những ô tô điện sau này đều đang và sẽ cần vô kể ắc quy. Hệ quả là theo ước tính của Bernstein, nhu cầu cho ắc quy điện sẽ tăng 9 lần tính đến năm 2030, với tổng lượng điện đạt 3.200 GWH. ước lượng của Rystad thì vào khoảng 4.000 GWH.
Dự đoán nhu cầu ắc quy tàu điện tại các thị trường và trên toàn cầu (TWH)
Xin được nhắc là chuỗi cung ứng ắc quy hiện nay không hề đơn giản, trải dài từ các mỏ khai khẩn Lithium ở Chile đến vùng đồng bằng Hungary, nơi có nhà máy sản xuất pin lớn nhất thế giới CATL đến từ Trung Quốc.
Thêm vào đó, trong bối cảnh các hãng xe phương Tây muốn giảm sự phụ thuộc ắc quy vào Trung Quốc, nhiều chuyên gia dự đoán giá sản phẩm này sẽ tăng trong năm 2022, điều lần trước tiên diễn ra suốt hơn 10 năm qua.
Thậm chí vào tháng 6/2022, Bloomberg đã ngờ về dự đoán trước đó cho việc một chiếc tàu điện sẽ rẻ ngang một chiếc ô tô chạy xăng truyền thống vào năm 2024. Ngay cả những đích như việc cấm bán ô tô mới chạy nhiên liệu hóa thạch vào năm 2035 của Liên minh Châu Âu (EU) cũng bị đánh giá là sẽ không thực hiện được.
Lời hứa hão huyền
Về lý thuyết, ngành xe điện sẽ có khối dự án nhà máy ắc quy. Báo cáo của Benchmark Minerals cho thấy nếu mọi lời cam kết thành hiện thực thì sẽ có khoảng 282 nhà máy cỡ lớn chuyên sản xuất ắc quy đi vào hoạt động năm 2031, đưa tổng năng lượng ắc quy toàn cầu lên 5.800 GWH.
Tuy nhiên thực tại thì không như là mơ.
tính hạnh của Bernstein cho thấy 6 nhà sinh sản ắc quy chính là BYD và CATL từ Trung Quốc, LK-Samsung và SK Innovation từ Hàn Quốc, Panasonic từ Nhật Bản chỉ có tổng công suất ắc quy là 1.360 GWH vào cuối thập niên này.
Như vậy, hàng nghìn GWH ắc quy điện sẽ phụ thuộc vào những cam kết của người chơi mới, vốn là một điều không chắc chắn trong ngành tốn nhiều tiền đầu tư này.
Nghiên cứu của hãng tham mưu S&P Global Mobility cho thấy bình quân một nhà máy sản xuất ắc quy cỡ lớn (Gigafactories) sẽ cần chí ít 3 năm để xây dựng, tốn thêm vài năm nữa để có thể chạy được hết công suất.
Ngoài ra, sự duy nhất về công nghệ của mỗi thương hiệu khiến Cell pin của hãng này khó có thể thay thế bằng loại của hãng khác, qua đó càng thắt nút cổ chai nguồn cung ắc quy.
vì vậy theo tờ Economist, mức cung thực tiễn ắc quy điện năm 2030 sẽ thấp hơn so với kỳ vọng của nhiều người.
Bên cạnh đó, việc Trung Quốc thống trị ngành ắc quy cũng là một vấn đề. Benchmark Minerals dự đoán dù thị phần ắc quy của Trung Quốc có bị suy giảm trong 10 năm tới thì cũng chỉ hạ từ 80% bây giờ xuống dưới 70%. Mỹ sẽ chiếm khoảng 12% và số còn lại thuộc về Châu Âu.
Giá các vật liệu cho sản xuất ắc quy. Tháng 1/ điểm
Như vậy, ô tô điện trên toàn cầu vẫn sẽ phụ thuộc lớn vào Trung Quốc và với những bất ổn về thương mại hay địa chính trị, việc kỳ vọng xe điện rẻ ngang ô tô động cơ đốt trong truyền thống trong tương lai gần là khó xảy ra.
Thiếu tài nguyên
Một nguyên tố nữa trở thành điểm yếu chết người của xe điện trước ô tô truyền thống là vật liệu để làm nên ắc quy.
Lấy thí dụ Nikel, nhờ nguồn cung của Indonesia, hiện chiếm 37% tổng lượng cung Nikel toàn cầu mà chuỗi cung ứng ắc quy bây chừ khá ổn định. Tuy nhiên nếu nhìn kỹ, chất lượng Nikel tại đây khá thấp để làm ắc quy. Chúng chỉ có thể làm thành các bộ phận của ắc quy sau khi đã tinh luyện vài lần, qua đó thải lượng khí thải nhà kính nhiều gấp 3 Bơm màng Aro PD01P-HPS-PTT-P thường nhật ra môi trường so với Nikel chất lượng cao từ Canada hay Nga.
Với việc ô nhiễm môi trường như vậy, việc sinh sản ắc quy cho xe điện có thể gặp chướng ngại tại phương Tây, nơi các nhà hoạt động bảo vệ môi trường có ngôn ngữ rất lớn.
Thế rồi nguyên liệu Cobalt cũng là vấn đề. Nguồn cung loại nguyên liệu này không thật sự dồi dào. Những mỏ khai phá tại Congo và Indonesia có thể đáp ứng được nhu cầu ngành ắc quy toàn cầu cho đến năm 2027 nhưng sau đó thì câu chuyện sẽ phức tạp hơn bởi các nhà máy sẽ phải nhập hàng từ các mỏ khẩn hoang dùng lao động trẻ mỏ cũng như vi phạm các tiêu chuẩn về an toàn lao động.
Nhiều hãng xe phương Tây đã cho biết sẽ không mua Cobalt từ những mỏ như vậy nhưng thay vào đó lấy nguồn cung từ đâu thì chưa rõ.
Tuy nhiên, ngoài Nikel và Cobalt thì Lithium lại là nguyên liệu làm mọi người đau đầu nhất. Tờ Economist cho biết nhiều nhà sinh sản đã phải cắt giảm sản lượng vì thiếu nguồn cung vật liệu này.
Theo các cam kết, nguồn cung Lithium sẽ dôi vào năm 2026 nhờ các mỏ khai thác mới. ngang trái thay, phần nhiều những mỏ mới này lại nằm ở Trung Quốc với chất lượng Lithium thấp, đồng nghĩa với việc tốn uổng tinh chế, sản xuất nhiều hơn so với các mỏ ở Australia hay Châu mỹ Latin.
Chuyên gia hàng hóa Socrates Economou của hãng Trafigura ước tính để giá mỗi tấn Lithium phá hoang từ những mỏ Trung Quốc mới này sẽ tối thiểu vào khoảng 35.000 USD, cao gấp 3 lần so với mức giá năm 2021.
Trong khi đó, nguồn Lithium cao cấp từ Chile hay Australia cũng khó khai hoang. Chính phủ Chile đang định quốc hữu hóa tuốt tài nguyên thiên nhiên trong khi thuế khoáng sản tại Australia thuộc hàng cao nhất thế giới.
Trung Quốc cai trị trong mảng tái chế vật liệu ắc quy
Tình hình tệ bạc đến mức hãng giao dịch Lithium lớn nhất nhì thế giới Albemarle đã phải cảnh cáo vào cuối tháng 7/2022 rằng bất chấp những nỗ lực gia tăng nguồn cung, các nhà sản xuất xe điện sẽ phải đối mặt với cuộc chiến cỡ nguyên liệu cho ắc quy từ nay đến năm 2030.
Xin được nhắc là để xây dựng một mỏ khai phá khoáng sản đúng chuẩn sẽ cần 5-25 năm tùy tình hình, do đó sẽ không có nhiều thời kì ARO 666170-3EB-C để khoảng và khẩn hoang mỏ mới mau chóng trong 10 năm tới đây. vì thế nhiều nhà đầu tư cũng như tập đoàn khá dè chừng khi đổ tiền vào lĩnh vực này dù biết ngành xe điện đang bùng nổ.
Thêm nữa, những nguyên tố về môi trường, chính trị cũng khiến việc đầu tư khai hoang khoáng sản không hề đơn giản. Nhiều mỏ phá hoang nhỏ không trên dưới được nguồn vốn đầu tư trong khi các ông lớn khá kén chọn với một ngành mạo hiểm, dễ gây mất hình ảnh và không thân thiện với môi trường.
Với lý do đó, kể từ năm 2021 đến nay mới có 20 dự án đầu tư khai khẩn Nikel chất lượng cao cho ắc quy và 5 dự án khác cho Lithium lẫn Cobalt.
Chuyên gia Mick David của hãng khẩn hoang Vision Blue Resources ngờ về khả năng cung ứng của những dự án này với nhu cầu thị trường đang bùng nổ hiện nay. Việc tái chế được cho là sẽ chưa thể giúp ích nhiều cho nguồn cung ngành ắc quy trước năm 2030.
Hiện nhiều công nghệ đã được phát triển để giảm nhu cầu sử dụng các vật liệu khan hiếm, thế nhưng đồng nghĩa với nó là hiệu suất của ắc quy cũng phải giảm theo. Công nghệ cực âm dựa trên Natri cos thể thay thế được những vật liệu quý hiếm thì còn lâu mới được hoàn thiện.
Tái chế: Bài toán nan giải
Theo Economist, ngay cả khi ngành tàu điện giải quyết được bài toán ắc quy và vật liệu thì họ vẫn phải đối mặt với vấn đề tài chế. Hiện Trung Quốc đang là nhà độc quyền trong lĩnh vực này khi các công ty tại đây tái chế đến gần 70% Lithium, 84% Nikel và 85% Cobalt của thế giới.
thưa của Trafigura cho thấy tỷ lệ tái chế Nikel và Cobalt Aro 666300-EEB-C của Trung Quốc sẽ vẫn trên 80% trong 5 năm tới. Thậm chí các công ty Châu Âu và Bắc Mỹ sẽ vẫn phải dựa ít ra một nửa công suất vào nhà cung cấp nước ngoaì, thường là Trung Quốc, trong việc chuyển đổi quặng tinh luyện thành vật liệu sản xuất ắc quy. Xin được nhắc lại là phần lớn nguồn điện tại Trung Quốc là nhiệt điện than, gây ô nhiễm môi trường.
nên chi, không có gì khó hiểu khi Mỹ dành Bơm màng khí nén ARO 666120-344-C 3 tỷ USD để sinh sản ắc quy trong Luật cơ sở hạ tầng phê duyệt năm 2021. Phía EU cũng đầu tư 127 tỷ Euro trong năm 2021 và dự kiến bơm thêm 382 tỷ Euro nữa vào năm 2030 cho ngành này.
*Nguồn: The Economist
Theo Huyền Băng
Nhịp sống kinh tế